Quảng cáo #38

Chuyển đổi nông nghiệp sinh thái từ chính sách đến thực tiễn: Giải pháp cho chuyển đổi Hệ thống LTTP bền vững của Việt Nam

Chiều 26/8/2025 tại Hà Nội, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp cùng với UNDP đã tổ chức Hội thảo tham vấn kỹ thuật với chủ đề “Đánh giá các mô hình nông nghiệp sinh thái và giải pháp dựa vào thiên nhiên trong nông nghiệp để nhân rộng hiệu quả”. Hội thảo khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.

Nông nghiệp sinh thái và cam kết của Việt Nam

Tại Hội thảo, ông Bùi Hải Nam - Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đã trình bày một cách toàn diện về tình hình thực hiện chiến lược nông nghiệp sinh thái Việt Nam, từ những thành tựu đến các thách thức và định hướng chiến lược.

Ông mở đầu bằng việc nhấn mạnh những thành công ấn tượng, với kim ngạch xuất khẩu nông sản đứng thứ hai ASEAN và thứ 15 trên thế giới, đóng góp khoảng 14% GDP và đảm bảo vững chắc an ninh lương thực với sản lượng lúa bình quân hơn 525 kg/người/năm. Tuy nhiên, ông Nam cũng chỉ ra rằng sự tăng trưởng này chủ yếu dựa vào thâm canh, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng như suy thoái môi trường và gia tăng tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu.

n01-1756271127.jpg

Ông Bùi Hải Nam - Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp. Ảnh: Bảo Thắng/Báo NN&MT.

Để giải quyết, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ, điển hình là mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 cùng với các chính sách chiến lược như Quyết định số 150/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 300/QĐ-TTg ngày 28/3/2023 về Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ. Ông Nam cho biết, những chính sách này đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng cho nông nghiệp sinh thái.

Để đánh giá thực trạng, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp đã tiến hành khảo sát và hợp nhất 275 dự án nông nghiệp sinh thái (NNST) trên cả nước, sử dụng khung phân tích là 13 nguyên tắc NNST của Hội đồng Chuyên gia Cấp cao (HLPE) và khung chuyển đổi nông nghiệp sinh thái gồm 5 mức của Gliessman đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Kết quả cho thấy các mô hình NNST ở Việt nam hiện đang được triển khai manh mún, thiếu một hệ thống đo lường, báo cáo và kiểm chứng (MRV). Đáng chú ý là nguồn vốn chủ yếu đến từ ODA (61,4%), trong khi nguồn lực từ nhà nước (16%) và tư nhân (9%) còn hạn chế.

Từ những phát hiện đó, ông Nam nhận định nghịch lý lớn nhất là "chính sách dày mà kỹ thuật lại mỏng", khiến khoảng cách từ tầm nhìn đến thực tế còn xa. Để giải quyết, Viện đã đề xuất một loạt khuyến nghị, bao gồm việc phát triển các quỹ tín thác môi trường, cải thiện logistics và hạ tầng, số hóa các chứng nhận và tăng cường can thiệp cấp quốc gia. Cuối cùng, ông đề xuất một lộ trình thực hiện hai giai đoạn: Giai đoạn 1 (2026-2027) tập trung vào xây dựng nền tảng và Giai đoạn 2 (2028-2030) nhằm nhân rộng các mô hình thành công.

Điểm nghẽn nông nghiệp sinh thái và tiếng nói từ thực tiễn

Tại hội thảo tham vấn về đánh giá các mô hình nông nghiệp sinh thái, các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp đã cùng nhau thảo luận, làm rõ những điểm nghẽn và đưa ra các giải pháp toàn diện để thúc đẩy nông nghiệp bền vững.

Theo bà Nguyễn Thị Thịnh, CEO Mục Đồng Organic, và ông Trần Mạnh Chiến, Giám đốc điều hành Thực phẩm sạch Bác Tôm, thách thức lớn nhất đối với các mô hình nông nghiệp sinh thái hiện nay là vốn liếng. Nguồn vốn cho nông dân nhỏ thường ít ỏi và ngắn hạn, khiến họ khó có thể đầu tư vào các mô hình sản xuất dài hơi, dù đã chứng minh được hiệu quả. Bà Thịnh cho biết ngân hàng thường e ngại cho vay tín chấp do rủi ro thiên tai, dịch bệnh. Do đó, các doanh nghiệp phải tự tìm cách thích nghi, như Mục Đồng đã dời trang trại để giảm nhu cầu vốn hay Bác Tôm đã xây dựng hệ thống PGS (Hệ thống đảm bảo chất lượng cùng tham gia) để tạo dựng niềm tin mà không tốn kém. Cả hai đều khẳng định những nỗ lực này không thể thay thế được một cơ chế tài chính bền vững.

n02-1756271347.jpg

Phó Vụ trưởng Vũ Thanh Liêm: 'Nông nghiệp sinh thái vừa bảo vệ đa dạng sinh học, vừa tăng sức chống chịu trước biến đổi khí hậu'. Ảnh: Bảo Thắng/Báo NN&MT.

Các chuyên gia đã bổ sung những giải pháp mang tính chiến lược hơn. Ông Vũ Thái Trường, Trưởng Ban Biến đổi khí hậu và Môi trường UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh rằng nếu không có tín dụng xanh và sự tham gia chủ động của cộng đồng, nông nghiệp sinh thái sẽ không thể phát triển. Ông cho rằng khi dòng vốn được khơi thông, nông dân sẽ có cơ hội tăng giá trị sản phẩm bằng cách kết hợp với du lịch tại chỗ và các hoạt động văn hóa, từ đó giữ lại được phần giá trị gia tăng thay vì để tuột khỏi tay.

Ông Vũ Thanh Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, khẳng định nông nghiệp sinh thái không chỉ là cách bảo vệ đa dạng sinh học mà còn là chìa khóa để ngành nông nghiệp tăng sức chống chịu trước những biến động khắc nghiệt. Theo ông, điều cốt lõi hiện nay là phải có những tiêu chí rõ ràng để định lượng và triển khai, đồng thời thúc đẩy các cơ chế tài chính xanh và tín chỉ carbon để biến lời hứa thành hành động.

Phân tích về tín dụng xanh và vai trò HTX được gợi mở rộng hơn ở tầm chính sách. Ông Bùi Hải Nam, Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp cho rằng, nếu tín dụng và thị trường là dòng máu nuôi cơ thể, thì chính sách phải là khung xương để nâng đỡ.

Vấn đề hiện nay không nằm ở tầm nhìn, mà ở chỗ khoảng cách giữa tầm nhìn và đồng ruộng vẫn còn xa. “Chúng ta đã có hành lang chính sách, đã có cam kết Net Zero, nhưng nếu nông dân không nhìn thấy lợi ích cụ thể, nông nghiệp sinh thái sẽ mãi luẩn quẩn trong các dự án thí điểm”, ông nói.

Giải pháp, theo ông Nam, nằm ở cơ chế “đóng mạch giá trị” - nơi chính sách, tài chính, thị trường và nông dân cùng vận hành như một vòng tròn khép kín. Khi ấy, nông dân không chỉ là người thực thi, mà là trung tâm của chuyển đổi. Nông nghiệp sinh thái không chỉ dừng là một ý tưởng đẹp, mà trở thành một động lực kinh tế thực sự, nuôi dưỡng cả sinh kế lẫn tương lai xanh cho đất nước.

Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp then chốt

Từ góc nhìn quốc tế được TS Nguyễn Quang Tân, Điều phối viên quốc gia của ICRAF, bổ sung như một tầng nền quan trọng. Ông nhắc đến 13 nguyên tắc về nông nghiệp sinh thái mà Ủy ban cấp cao về an ninh lương thực thế giới (HLPE) đưa ra, từ đa dạng hóa sản xuất, công bằng xã hội cho tới kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, nhấn mạnh rằng đây không phải là một “bộ sưu tập kỹ thuật”, mà là nguyên tắc sống còn để hệ thống LTTP trở nên công bằng, bền vững.

n03-1756271449.jpg

TS Nguyễn Quang Tân chia sẻ cách tiếp cận 5 bước để chuyển đổi hệ thống LTTP thông qua nông nghiệp sinh thái. Ảnh: Bảo Thắng./Báo NN&MT.

TS Tân kể về Ấn Độ, nơi hàng nghìn khuyến nông viên được đào tạo để lan tỏa mô hình sinh thái. Về Philippines, nơi nông nghiệp kết hợp hạ tầng xanh đã hồi sinh các vùng đất dốc. Hay Indonesia, nơi đất than bùn được cứu nhờ nông lâm kết hợp. Những câu chuyện ấy cho thấy một điểm chung. Khi nông nghiệp sinh thái được đặt trong những quy định chính thức, hàng triệu nông dân có thể thay đổi tập quán, ổn định sinh kế.

Ở Việt Nam, những mô hình tại Lào Cai, Phú Thọ do ICRAF triển khai đã chứng minh có thể giảm tới 70% lượng phân bón hóa học mà năng suất vẫn ổn định. Nhưng để kết quả ấy không dừng là “điểm sáng” trên báo cáo, ông Tân nhấn mạnh cần có không gian để “nông dân dạy nông dân” - cách lan tỏa tri thức chân thực và hiệu quả nhất.

Tại hội thảo, PGS.TS Đào Thế Anh - Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam, đã chia sẻ những giải pháp cụ thể để thúc đẩy quá trình chuyển đổi đưa chính sách từ trung ương đến nông dân. Các giải pháp này không chỉ giúp hiện thực hóa các văn bản chính sách hiện có mà còn đóng góp trực tiếp vào mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững theo Quyết định số 300 của Chính phủ về Kế hoạch hành động quốc gia chuyển đổi hệ thống lương thực, thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững ở Việt Nam đến năm 2030.

a1-1756271832.jpg

PGS.TS Đào Thế Anh - Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ảnh: Trường Giang

Theo đó, PGS.TS Đào Thế Anh đã đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi nông nghiệp sinh thái đóng góp cho Chuyển đổi Hệ thống LTTP minh bạch, trách nhiệm và bền vững đến 2030. Các giải pháp này được trình bày theo từng góc độ cụ thể để tạo nên một chiến lược tổng thể và có hệ thống:

(1) Về mặt địa phương: Các địa phương cần phải xây dựng kế hoạch hành động chuyển đổi Hệ thống LTTP kết hợp với chuyển đổi nông nghiệp sinh thái cấp tỉnh để giải quyết những thiếu hụt và tồn tại đặc thù của mình. Việc này giúp đảm bảo các chính sách được lồng nghép áp dụng hiệu quả với người dân, phù hợp với từng vùng miền.

(2) Về nguồn vốn: Ông nhấn mạnh rằng vấn đề huy động vốn của Chính phủ cho nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam vẫn còn hạn chế so với một số quốc gia khác. Đồng thời, ông đề xuất cần xem xét lại cách tiếp cận đối với nguồn vốn ODA, vốn đang chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng mà chưa quan tâm đúng mức đến phát triển nông nghiệp sinh thái.

(3) Về tri thức và kỹ năng: Một trong những rào cản lớn là sự thiếu hụt kiến thức và hiểu biết liên quan đến nông nghiệp sinh thái. Để giải quyết vấn đề này, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp nên đề xuất xây dựng danh mục các mô hình NNST và các tác nhân thành công đã được triển khai trên thực tiễn. Việc này sẽ tạo cơ sở để chia sẻ kinh nghiệm và nhân rộng các mô hình hiệu quả.

(4) Về quyết tâm chính trị: Ông khẳng định rằng điểm nổi bật của hội thảo lần này không chỉ là việc trao đổi kỹ thuật, mà còn là quyết tâm chính trị của Việt Nam trong đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp. Sự đồng bộ trong cơ chế chính sách, nguồn lực tài chính đủ mạnh và sự tham gia của doanh nghiệp là yếu tố then chốt để nhân rộng các mô hình nông nghiệp sinh thái trên cả nước.

Việc thúc đẩy áp dụng tiếp cận nông nghiệp sinh thái giúp Việt Nam giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu: bảo đảm an ninh lương thực và dinh dưỡng, nâng cao thu nhập cho nông dân, đóng góp vào tăng trưởng GDP nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường ngày càng khắt khe, nông nghiệp Việt Nam chỉ có thể nâng cao sức cạnh tranh nếu chuyển đổi theo hướng sinh thái, xanh, sạch và có trách nhiệm.

Vương Xuân Nguyên