Thể chế quản lý: Cần đổi mới căn bản để khơi thông nguồn lực KH&CN
Trong nhiều năm, hệ thống quản lý KH&CN ở Việt Nam vẫn vận hành theo cơ chế hành chính bao cấp, nặng về thủ tục, phân bổ ngân sách theo niên hạn và chủ yếu kiểm soát đầu vào thay vì giám sát đầu ra. Các tổ chức KH&CN công lập phần lớn bị động về tài chính, phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, và chưa đủ quyền tự chủ để định hướng nghiên cứu theo nhu cầu thực tiễn của thị trường hoặc xã hội.
Theo bài phân tích đăng trên Tạp chí Nông thôn và Phát triển, mô hình “xin – cho” này khiến các đơn vị nghiên cứu khó phát huy nội lực, thậm chí ngại đổi mới vì “làm nhiều chưa chắc được ghi nhận, làm sai thì dễ bị xử lý”.
Nghị quyết 57 chỉ rõ: cần chuyển mạnh từ quản lý hành chính sang quản lý theo sứ mệnh và kết quả đầu ra; tổ chức KH&CN cần được vận hành theo cơ chế tự chủ toàn diện – từ tổ chức bộ máy, nhân sự đến định hướng nhiệm vụ và tài chính.
Việc trao quyền thực chất cho tổ chức nghiên cứu đi kèm với cơ chế khoán chi, đánh giá độc lập, kiểm toán minh bạch và quyền tiếp cận các nguồn vốn ngoài ngân sách là bước đi cần thiết. Không thể trông chờ vào sáng tạo nếu vẫn bị trói bởi thủ tục hành chính và ngân sách cấp phát thiếu linh hoạt.
Tái cấu trúc hệ thống nghiên cứu: Từ manh mún đến tinh gọn và hiệu quả
Việt Nam hiện có hơn 1.600 tổ chức KH&CN công lập, nhưng phần lớn còn nhỏ lẻ, chuyên môn hóa hẹp, thiếu tính liên ngành và rất ít đơn vị có khả năng cạnh tranh hoặc vươn tầm khu vực. Hệ quả là chi phí đầu tư bị dàn trải, nhân lực phân tán, trong khi doanh nghiệp – nơi cần công nghệ nhất – lại khó tiếp cận kết quả nghiên cứu thực chất.
Theo Nghị quyết 57, việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức KH&CN là ưu tiên hàng đầu. Các tổ chức nghiên cứu cần được sắp xếp lại theo hướng liên ngành, đa lĩnh vực, hoạt động như các doanh nghiệp khoa học công nghệ có thể gọi vốn, liên kết với đối tác và chủ động chuyển giao sản phẩm ra thị trường.
Tạp chí Nông thôn và Phát triển nhận định rằng mô hình viện – trường – doanh nghiệp chính là cấu trúc lý tưởng cần hướng tới, đặc biệt trong các lĩnh vực có tiềm năng ứng dụng như nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ vật liệu, sinh học, dược phẩm và chuyển đổi số.
Một số địa phương như TP.HCM, Thái Nguyên, Quảng Nam… đã chủ động xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, khu nghiên cứu ứng dụng phục vụ doanh nghiệp địa phương. Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Quốc Bảo (Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN), “những mô hình tiên phong vẫn thiếu khung pháp lý đủ mạnh để nhân rộng, và các tổ chức nghiên cứu vẫn gặp khó khi tiếp cận nguồn vốn tư nhân”.
Nhân lực nghiên cứu: “Chìa khóa con người” trong cuộc cách mạng thể chế
Không thể nói đến đổi mới KH&CN nếu không đặt con người vào trung tâm của chính sách. Tuy nhiên, hiện nay, phần lớn các nhà nghiên cứu vẫn làm việc trong môi trường thiếu động lực, đãi ngộ thấp, và khó có điều kiện phát triển nghề nghiệp.
Theo báo cáo của Bộ KH&CN, chỉ khoảng 30% nhà khoa học làm nghiên cứu toàn thời gian; trong khi đó, mức lương và phúc lợi không đủ để giữ chân nhân tài. Tình trạng “chảy máu chất xám” diễn ra thầm lặng khi các nhà khoa học trẻ hoặc chuyển sang doanh nghiệp tư nhân, hoặc tìm kiếm cơ hội ở nước ngoài.
Nghị quyết 57 yêu cầu rõ ràng: xây dựng chính sách đặc thù để thu hút, trọng dụng và giữ chân nhân tài khoa học. Điều này bao gồm: trả lương theo hiệu quả nghiên cứu; cho phép tuyển dụng linh hoạt; tạo hành lang pháp lý để nhà khoa học vừa làm nghiên cứu, vừa chuyển giao công nghệ hoặc khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, các chuyên gia nhấn mạnh cần có chiến lược phát triển đội ngũ kế cận: từ đổi mới đào tạo sau đại học, hỗ trợ các nhóm nghiên cứu trẻ, đến kết nối với mạng lưới chuyên gia quốc tế. Theo GS.TS. Trần Văn Khải, “chúng ta phải coi đầu tư vào nhà khoa học như đầu tư vào quốc phòng vì họ chính là lực lượng bảo vệ tương lai quốc gia trên mặt trận tri thức”.
Gắn tổ chức nghiên cứu với doanh nghiệp và thị trường – Đòn bẩy để thương mại hóa kết quả KH&CN
Một trong những hạn chế kéo dài của KH&CN Việt Nam là sự đứt gãy giữa nghiên cứu và ứng dụng. Nhiều công trình nghiên cứu chất lượng vẫn nằm trên giá sách vì thiếu cơ chế chuyển giao, trong khi doanh nghiệp lại “đói” công nghệ, phải nhập khẩu giải pháp từ nước ngoài.
Theo Tạp chí Nông thôn và Phát triển, để khắc phục tình trạng này, cần chuyển tư duy quản lý tổ chức KH&CN từ “đơn vị sự nghiệp phục vụ nhà nước” sang “trung tâm đổi mới sáng tạo mở”, đóng vai trò trung gian kết nối giữa nhà khoa học, doanh nghiệp, nhà nước và nhà đầu tư.
Mô hình liên kết “4 nhà” (nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà nông) cũng cần được tái cấu trúc, không chỉ ở cấp khẩu hiệu mà bằng các cơ chế tài chính cụ thể như: hợp đồng đặt hàng ứng dụng, quỹ đổi mới sáng tạo địa phương, tín dụng công nghệ và ưu đãi thuế cho doanh nghiệp hợp tác nghiên cứu.
Các trung tâm đổi mới sáng tạo như NIC (Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia), các khu công nghệ cao tại Hòa Lạc, TP.HCM, Đà Nẵng… đang đóng vai trò tiên phong, nhưng cần có hệ sinh thái pháp lý đồng bộ để kết nối và lan tỏa.
Đổi mới quản lý và tổ chức KH&CN không đơn thuần là cải cách kỹ thuật, mà là cải cách thể chế gắn với chiến lược phát triển quốc gia. Việc hiện thực hóa Nghị quyết 57 sẽ phụ thuộc vào mức độ quyết liệt trong việc trao quyền cho tổ chức nghiên cứu, mở rộng quyền tự chủ, tháo gỡ các rào cản pháp lý và trao cơ hội cho con người – những nhà khoa học đang từng ngày âm thầm cống hiến.
Mời quý độc giả đọc thêm bài viết gốc TẠI ĐÂY.